Kháng sinh là một loại thuốc vô cùng quen thuộc với mọi người, tuy nhiên chúng không phải là loại thuốc có thể sử dụng tùy tiện được, cần phải dùng đúng bệnh, đúng liều lượng, đúng thời gian và có sự hướng dẫn của bác sĩ/dược sĩ. Các kháng sinh thông dụng chỉ có tác dụng với vi khuẩn, rất ít kháng sinh có tác dụng với virus.
Thế nào là kháng sinh?
Từ những thế kỷ trước, con người đã sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn. Thời kỳ của kháng sinh bắt đầu từ khi sản xuất Pennicilin năm 1941, khi đó kháng sinh được coi là những chất do vi sinh vật ( vi khuẩn, nấm, …) tạo ra có khả năng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt vi khuẩn khác. Tiếp theo đó hàng loạt công trình truy tìm các loại kháng sinh khác, người ta đã có thể tổng hợp, bán tổng hợp các kháng sinh, do đó định nghĩa về kháng sinh cũng thay đổi, hiện nay kháng sinh được định nghĩa như sau: “Kháng sinh là những chất có nguồn gốc vi sinh vật, được bán tổng hợp hoặc tổng hợp hóa học. Với liều thấp có tác dụng kìm hãm hoặc tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh.”
Kháng sinh penicillin kìm hãm hoặc tiêu diệt vi khuẩn
Công dụng của thuốc kháng sinh
Kháng sinh dùng để điều trị các bệnh lý gây ra bởi vi khuẩn, ví dụ như: viêm xoang, nhiễm khuẩn răng, nhiễm khuẩn da mô mềm, viêm màng não, nhiễm khuẩn đường niệu, nhiễm khuẩn hô hấp trên, nhiễm khuẩn hô hấp dưới v.v
Các bệnh lý cảm, cảm cúm, ho, đau họng thường gây ra bởi virus, và trong trường hợp này, việc dùng thuốc kháng sinh sẽ không có hiệu quả. Một số trường hợp chưa xác định được nguyên nhân nhiễm là do vi khuẩn hay virus sẽ cần làm thêm các xét nghiệm vi sinh trước khi kê đơn thuốc điều trị.
Tác dụng phụ của thuốc kháng sinh
Phần lớn các kháng sinh an toàn khi được sử dụng đúng. Tuy nhiên chúng đều có thể gây ra tác dụng không mong muốn:
· Tình trạng nôn mửa;
· Cảm giác buồn nôn;
· Mắc bệnh tiêu chảy;
· Bị đầy bụng và khó tiêu;
· Đau bụng;
· Rơi vào cảm giác ăn mất ngon.
Tuy nhiên, những tác dụng phụ này thường ở mức độ nhẹ và sẽ hết sau khi kết thúc quá trình điều trị. Nếu tác dụng phụ ngày càng kéo dài và trở nên nghiêm trọng cần phải liên hệ ngay với bác sĩ điều trị.
Phản ứng dị ứng kháng sinh
Trong hầu hết các trường hợp, phản ứng dị ứng có thể xuất hiện các biểu hiện:
· Tình trạng phát ban da nổi lên và ngứa (mày đay hoặc phát ban);
· Ho;
· Thở khò khè;
· Cổ họng bị co thắt có thể gây khó thở.
Trong một số trường hợp hiếm thuốc kháng sinh có thể gây ra dị ứng nghiêm trọng và có khả năng đe dọa tính mạng được gọi là sốc phản vệ. Các triệu chứng ban đầu của phản vệ thường giống như một phản ứng dị ứng nhẹ.
· Cảm thấy lâng lâng hoặc ngất xỉu.
· Khó thở, thở khò khè.
· Tim đập nhanh.
· Da trở nên sần sùi.
· Cảm giác bối rối và lo lắng.
· Ngất hoặc rơi vào trạng thái mất ý thức.
Biểu hiện của dị ứng kháng sinh
Khi gặp phản ứng dị ứng nhẹ chỉ cần ngừng thuốc và điều trị bằng các kháng histamin (Thuốc chống dị ứng). Trường hợp nặng (sốc phản vệ) thì phải có biện pháp xử trí khẩn cấp bằng các thuốc chống dị ứng (thuốc kháng Histamin, các Glucocorticoid), thuốc trợ tuần hoàn, trợ hô hấp…
Kháng kháng sinh
Kháng sinh là một công cụ điều trị vi khuẩn hữu hiệu khi được dùng một cách thận trọng và an toàn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy trên 50% việc dùng kháng sinh là không cần thiết. Việc sử dụng không phù hợp dẫn đến đề kháng kháng sinh, do vi khuẩn được “huấn luyện” và tự phát sinh các khả năng chống lại thuốc. Khi đó, kháng sinh sẽ không còn hiệu quả diệt khuẩn, người bệnh cần được chữa trị bằng loại kháng sinh phổ rông hơn, mạnh hơn. Ngoài ra, khi vi khuẩn trở nên “đa kháng” hoặc “siêu kháng thuốc”, sẽ không có kháng sinh nào có tác dụng và người bệnh có nguy cơ tử vong vì không còn loại thuốc điều trị phù hợp.
Do vậy, để sử dụng kháng sinh một cách hợp lý, an toàn, hiệu quả trong điều trị cần lưu ý một số nguyên tắc như sau:
Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn
Các tác nhân gây bệnh cho người có thể là virus, vi khuẩn, nấm, sinh vật hoặc ký sinh vật ( giun, sán…). Các kháng sinh thông dụng chỉ có tác dụng với vi khuẩn, rất ít kháng sinh có tác dụng với virus, nấm gây bệnh, sinh vật đơn bào. Mỗi nhóm kháng sinh lại chỉ có tác dụng với một số loại vi khuẩn nhất định; do đó, trước khi quyết định sử dụng một loại kháng sinh nào đó cần phải thực hiện bước thăm khám lâm sàng, bao gồm việc đo nhiệt độ, phỏng vấn và khám cho bệnh nhân. Đây là bước quan trọng nhất và phải làm trong mọi trường hợp.
Vì sốt là dấu hiệu điển hình khi có nhiễm khuẩn nên việc đo nhiệt độ góp phần quan trọng để khẳng có nhiễm khuẩn hay không. Sốt do vi khuẩn thường gây tăng thân nhiệt trên 39oc trong khi sốt do virus chỉ có nhiệt độ khoảng 38-38,5oc. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ như: Nhiễm khuẫn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bệnh nhân quá già yếu thì có thể có sốt nhẹ. Trái lại, bệnh nhân nhiễm virus quai bị, thủy đậu, sốt xuất huyết, bại liệt… có thể thân nhiệt tăng trên 39oc. Vì vậy việc thăm khám lâm sàng và phỏng vấn bệnh nhân giúp cho thầy thuốc dự đoán được tác nhân gây bệnh qua đường thâm nhập của vi khuẩn.
Sử dụng kháng sinh đúng liều, đúng cách và đủ thời gian
- Để chọn được liều phù hợp cần dựa vào mức độ nhiễm khuẩn, tuổi tác và thể trạng bệnh nhân
- Dùng kháng sinh phải dùng ngay liều điều trị mà không tăng dần liều, điều trị liên tục, không ngắt quãng và không giảm liều từ từ để tránh kháng thuốc.
- Trên thực tế không có qui định cụ thể về độ dài của đợt điều trị với mọi loại nhiễm khuẩn, nhưng đều có nguyên tắc chung là:
+ Sử dụng kháng sinh đến khi hết vi khuẩn trong cơ thể + 2-3 ngày ở người bình thường và + 5-7 ngày ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Thực tế thì ít khi có điều kiện để cấy vi khuẩn sau khi điều trị, do đó coi là hết vi khuẩn khi bệnh nhân giảm sốt, trạng thái cơ thể cải thiện như: ăn ngủ ngon, cơ thể tỉnh táo.
+ Với nhiễm khuẩn nhẹ, đợt điều trị thường được kéo dài khoảng 7-10 ngày, nhưng với nhiễm khuẩn nặng, nhiễm khuẩn ở những tổ chức mà kháng sinh khó thâm nhập như: màng tim, màng não, xương… thì đợt điều trị phải kéo dài hơn; riêng với bệnh lao, phác đồ điều trị ít nhất cũng phải 8 tháng.
CEVPHARMA hiện có đầy đủ các nhóm kháng sinh, đa dạng về mức giá và hàm lượng, phù hợp cho mọi đối tượng.